logo
Loading...
Cập nhật: 18.08.2014 09:51 - Lượt xem: 2,308
(Conglydaiviet) - Chính phủ vừa ban hành nghị định số 81/2014/NĐ-CP, quy định chi tiết một số điều của Pháp lệnh Chi phí giám định, định giá; chi phí cho người làm chứng, người phiên dịch trong tố tụng. Theo đó, chi phí cho người làm chứng được xác định bao gồm một hoặc một số chi phí như tiền lương hoặc thù lao cho người làm chứng: chi phí đi lại, chi phí lưu trú, các chi phí khác...

Theo qui định của pháp luật tố tụng, thì "Người làm chứng" là người biết các tình tiết có liên quan đến nội dung vụ án có thể được Toà án triệu tập tham gia tố tụng với tư cách là người làm chứng. Người mất năng lực hành vi dân sự không thể là người làm chứng. Người là chứng có các quyền và nghĩa vụ gồm:

   - Cung cấp toàn bộ những thông tin, tài liệu, đồ vật mà mình có được có liên quan đến việc giải quyết vụ án.

   - Khai báo trung thực những tình tiết mà mình biết được có liên quan đến việc giải quyết vụ án.

   - Được từ chối khai báo nếu lời khai của mình liên quan đến bí mật nhà nước, bí mật nghề nghiệp, bí mật kinh doanh, bí mật đời tư hoặc việc khai báo đó có ảnh hưởng xấu, bất lợi cho đương sự là người có quan hệ thân thích với mình.

   - Được nghỉ việc trong thời gian Toà án triệu tập hoặc lấy lời khai, nếu làm việc trong cơ quan, tổ chức.

   - Được hưởng các khoản phí đi lại và các chế độ khác theo quy định của pháp luật.

   - Yêu cầu Toà án đã triệu tập, cơ quan nhà nước có thẩm quyền bảo vệ tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, tài sản và các quyền và lợi ích hợp pháp khác của mình khi tham gia tố tụng; khiếu nại hành vi tố tụng của người tiến hành tố tụng.

   - Bồi thường thiệt hại và chịu trách nhiệm trước pháp luật do những lời khai báo sai sự thật gây thiệt hại cho đương sự hoặc cho người khác.

   - Phải có mặt tại phiên toà theo giấy triệu tập của Toà án, nếu việc lấy lời khai của người làm chứng phải thực hiện công khai tại phiên toà; trường hợp người làm chứng không đến phiên toà mà không có lý do chính đáng và việc vắng mặt của họ gây trở ngại cho việc xét xử thì Hội đồng xét xử có thể ra quyết định dẫn giải người làm chứng đến phiên toà.

   - Phải cam đoan trước Toà án về việc thực hiện quyền, nghĩa vụ của mình, trừ người làm chứng là người chưa thành niên. Người làm chứng khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật, từ chối khai báo hoặc khi được Toà án triệu tập mà vắng mặt không có lý do chính đáng thì phải chịu trách nhiệm theo quy định của pháp luật.

Để hoàn thành trách nhiệm khi tham gia tố tụng, góp phần làm sáng tỏ nội dung vụ án, giúp cho việc giải quyết của các cơ quan tiến hành tố tụng được khách quan, người làm chứng phải mất rất nhiều thời gian, công sức và chi phí đi lại. Mặt khác họ còn phải chịu nhiều sức ép tâm lý khác dẫn đến tâm lý chung là không muốn "dính dáng" đến hoạt động tố tụng.

Lâu nay, đa phần người làm chứng chủ yếu là "làm việc không công" vì cơ chế và chính sách thanh toán là bất cập, khó tiếp cận, cho nên người làm chứng khi tham gia tố tụng chủ yếu là để "làm tròn nhiệm vụ" mà hiếm khi quan tâm đến quyền lợi vật chất mà họ tự bỏ ra để thực hiện nghĩa vụ.

Việc xác lập lại chính sách và chế độ trả thù lao cho người làm chứng lần này bằng Nghị định của Chính phủ với các điều khoản chi tiết, rõ ràng trong áp dụng, sẽ là bước chuyển biến tích cực để động viên tinh thần trách nhiệm của người làm chứng. Đó cũng là trách nhiệm mà nhà nước cần phải đáp trả sòng phẳng cho các công dân của mình khi họ gắng sức và cùng chịu cực nhọc trong giải quyết các công việc chung.  

Theo Nghị định 81/2014/NĐ-CP, thì trường hợp người làm chứng tham gia phiên tòa hình sự, hành chính, dân sự... sẽ được hưởng 200% mức lương cơ sở của cán bộ, công chức, viên chức và lực lượng vũ trang, tính theo ngày lương do Nhà nước quy định (áp dụng trong trường hợp cơ quan tiến hành tố tụng triệu tập đối với người thực hiện giám định, người thực hiện định giá tham gia phiên tòa với vai trò người làm chứng). Thù lao cho người làm chứng (áp dụng cho các trường hợp không hưởng tiền lương theo quy định nêu trên) bằng 100% mức lương cơ sở.

Nghị định có hiệu lực áp dụng từ ngày 01/10/2014.

VPLS CÔNG LÝ ĐẠI VIỆT